Kháng thể kháng thụ thể n methyl d aspartate là gì? Các công bố khoa học về Kháng thể kháng thụ thể n methyl d aspartate

Kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate (NMDA) là một loại kháng thể chuyên biệt hướng tới thụ thể NMDA trên các tế bào thần kinh. Thụ thể NMDA là một dạng...

Kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate (NMDA) là một loại kháng thể chuyên biệt hướng tới thụ thể NMDA trên các tế bào thần kinh. Thụ thể NMDA là một dạng thụ thể gluamat được tìm thấy trong hầu hết các tế bào thần kinh và đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền tin nhắn thần kinh.

Kháng thể này có khả năng kết hợp với thụ thể NMDA và ngăn chặn sự kích hoạt của thụ thể này. Điều này có thể giảm tác động kháng thương tích đối với các tế bào thần kinh và góp phần giảm triệu chứng của các bệnh tự miễn, như bệnh trong ưa nhạy NMDA hoặc chứng co giật NMDA.
Kháng thể kháng NMDA (Anti-NMDA receptor antibodies) là các kháng thể được tạo ra bởi hệ miễn dịch của cơ thể để tấn công và chống lại thụ thể NMDA trên các tế bào thần kinh. Thụ thể NMDA là một loại thụ thể glutamate trong hệ thần kinh và đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền tin nhắn thần kinh.

Trong một số trường hợp, hệ miễn dịch có thể đồng nhất lầm tưởng thụ thể NMDA là một chất nguy hiểm và bắt đầu tạo ra kháng thể để tấn công nó. Điều này tạo ra sự xung đột giữa hệ miễn dịch và hệ thần kinh, gây ra tổn thương cho các tế bào thần kinh và gây ra triệu chứng bệnh.

Các triệu chứng của bệnh tự miễn với kháng NMDA (Anti-NMDA receptor encephalitis) bao gồm: thay đổi tâm thần, triệu chứng gây mất hồi ức, co giật, sự loạn thị, mất khả năng điều khiển cơ bắp, nhức đầu, mất ngủ, và triệu chứng giống như cuộn bướm (nổi hốc lỡm mở, khát nước nhiều, lo âu, thay đổi tâm trạng).

Điều trị cho bệnh tự miễn với kháng NMDA bao gồm việc sử dụng các loại thuốc chống viêm, corticosteroids, và các loại thuốc ức chế miễn dịch như rituximab và cyclophosphamide. Điều trị định kỳ và chăm sóc y tế đầy đủ rất quan trọng để giúp điều chỉnh tình trạng miễn dịch và hỗ trợ tái tổ chức hệ thống thần kinh.
Cụ thể hơn, kháng thể kháng NMDA là các kháng thể IgG (Immunoglobulin G) được hình thành để tấn công các thụ thể NMDA trên bề mặt các tế bào thần kinh. Việc tổng hợp kháng thể này thường xảy ra khi hệ miễn dịch nhầm lẫn thụ thể NMDA với các chất nguy hiểm ngoại vi như virus hoặc vi khuẩn, và bắt đầu tạo ra kháng thể nhằm loại bỏ chúng.

Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh tự miễn với kháng NMDA, hệ miễn dịch đột ngột tạo ra kháng thể mà không có sự kích thích từ các chất nguy hiểm ngoại vi. Kháng thể này sau đó trở nên quá mức và tấn công không chỉ các thụ thể NMDA mà còn tổn thương các tế bào thần kinh. Sự tác động của kháng thể dẫn đến việc giảm chức năng thụ thể NMDA và ảnh hưởng đến truyền tin nhắn thần kinh.

Những triệu chứng của bệnh tự miễn với kháng NMDA có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ tổn thương tế bào thần kinh và vị trí tác động trong hệ thống thần kinh. Triệu chứng thay đổi tâm thần, như chứng mất ý thức, tình trạng loạn thị, cơn co giật, và các triệu chứng tâm thần như lo âu, mất khả năng tập trung, biểu hiện tâm lý không bình thường, và thay đổi tâm trạng, có thể xảy ra.

Điều trị bệnh tự miễn với kháng NMDA thường bao gồm việc sử dụng các loại thuốc chống viêm đại trà như corticosteroids (như methylprednisolone) để giảm sự phản ứng miễn dịch. Ngoài ra, các loại thuốc ức chế miễn dịch như rituximab và cyclophosphamide cũng có thể được sử dụng để điều chỉnh miễn dịch và giảm sự tấn công vào tế bào thần kinh. Điều trị bổ sung như điều trị dự phòng thiếu chất thần kinh và hỗ trợ tâm lý cũng rất quan trọng trong quá trình phục hồi và tái tổ chức hệ thống thần kinh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kháng thể kháng thụ thể n methyl d aspartate":

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG VIÊM NÃO TỰ MIỄN DO KHÁNG THỂ KHÁNG THỤ THỂ N-METHYL-D-ASPARTATE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng viêm não tự miễn do kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate (viêm não NMDA). Đối tượng nghiên cứu: 35 bệnh nhân được chẩn đoán viêm não NMDA trong thời gian từ 01/ 2020 –5/2022 tại Bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, hồi cứu, tiến cứu. Kết quả: Trong 35 bệnh nhân viêm não NMDA đã được nghiên cứu, tuổi trung bình của bệnh nhân là 30,6 ± 13,7, với tỷ lệ nữ chiếm ưu thế (62,9%). Các triệu chứng về tâm thần xuất hiện trên phần lớn bệnh nhân (94,3%). Các triệu chứng thần kinh như rối loạn ý thức, co giật, loạn động và các rối loạn vận động, rối loạn giấc ngủ cũng thường gặp với tỷ lệ tương ứng là 82,9%, 57,1%, 54,3%, 57,1%; rối loạn chức năng tự chủ ít gặp với tỷ lệ 22,8%. Bất thường dịch não tủy chủ yếu là tăng bạch cầu (77,1%) trong đó tăng tế bào nhẹ từ 5 -50 tế bào/ mm3 chiếm 67,7%. Protein tăng trong dịch não tủy là không phổ biến, chiếm 8,5% (3 bệnh nhân). Kết quả MRI sọ não không phát hiện bất thường ở phần lớn bệnh nhân (82,9%). Tỷ lệ bệnh nhân có bất thường trên điện não đồ chiếm 74,3 %, trong đó chủ yếu là hình ảnh sóng delta brush chiếm 58,3%, sóng chậm lan tỏa 31,4%, nhọn sóng dạng động kinh ít gặp hơn chiếm tỷ lệ 11,4%. Có 31 bệnh nhân không phát hiện khối u chiếm 88,6%, 4 bệnh nhân (11,4%) có khối u, trong đó cả 4 bệnh nhân đều là nữ và là u quái buồng trứng. Kết luận: Tóm lại, qua nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng viêm não NMDA chúng tôi nhận thấy rằng viêm não NMDA là viêm não tự miễn hay gặp ở nữ trẻ tuổi, với triệu chứng lâm sàng nổi trội là các rối loạn tâm thần và một số trường hợp có liên quan đế khối u quái buồng trứng. Về đặc điểm cận lâm sàng, mặc dù MRI sọ não phần lớn không phát hiện bất thường tuy nhiên tăng tế bào bạch cầu trong dịch não tủy và bất thường điện não có thể gợi ý chẩn đoán sớm cho bệnh nhân, đặc biệt là sóng delta brush trên bản điện não.
#Viêm não tự miễn #kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate #NMDA
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VIÊM NÃO TỰ MIỄN DO KHÁNG THỂ KHÁNG THỤ THỂ N-METHYL-D-ASPARTATE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng viêm não tự miễn do kháng thể kháng N-methyl-D-aspartate (viêm não NMDA). Đối tượng nghiên cứu: 36 bệnh nhân được chẩn đoán viêm não NMDA trong thời gian từ 01/ 2019 –5/2022 tại Bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, hồi cứu, tiến cứu. Kết quả: Trong 36 bệnh nhân viêm não NMDA đã được nghiên cứu (tuổi từ 14 – 64 tuổi) tuổi trung bình là 30,7 ± 13,7 tuổi; nữ chiếm ưu thế (63,9%). Bệnh nhân nhập viện chủ yếu vì rối loạn tâm thần (50%). 19 bệnh nhân khởi phát bằng triệu chứng tâm thần (52,8%). Trong nhóm các triệu chứng về tâm thần, triệu chứng thường gặp nhất là tư duy không phù hợp và hành vi kỳ quặc chiếm 61,1%. Các triệu chứng hoang tưởng, suy giảm tiến triển lời nói ngôn ngữ cũng thường xuyên gặp chiếm tỷ lệ theo thứ tự 58,3%, 55,6%. Trong nhóm các triệu chứng về thần kinh, 30 bệnh nhân rối loạn ý thức, 21 bệnh nhân (58,3%) co giật, 21 bệnh nhân (58,3%) có rối loạn giấc ngủ và 8 bệnh nhân (22,2%) có rối loạn chức năng tự chủ. Kết luận: Tóm lại, qua nghiên cứu đặc điểm lâm sàng viêm não NMDA chúng tôi nhận thấy rằng viêm não NMDA là viêm não tự miễn hay gặp ở nữ trẻ tuổi, với triệu chứng khởi phát và triệu chứng lâm sàng nổi trội là các rối loạn tâm thần. Điều này khiến cho việc chẩn đoán sớm bệnh rất khó khăn và làm trì hoãn điều trị cho bệnh nhân.
#Viêm não tự miễn #kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate #NMDA
7. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng viêm não kháng thụ thể n-methyl-d-aspartate (nmda) sau viêm não herpes simplex ở trẻ em
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của 11 bệnh nhân có triệu chứng thần kinh tái phát sau viêm não Herpes simplex (HSV) ở trẻ em. Mô tả cắt ngang hàng loạt các ca bệnh từ tháng 11 năm 2019 đến tháng 12 năm 2021. Ở thời điểm nghiên cứu, tất cả bệnh nhân đều có kháng thể kháng thụ thể NMDA (N-methyl-D-Aspartate) dương tính và Polymerase Chain Reaction (PCR) HSV âm tính trong dịch não tủy. Thời gian khởi phát bệnh trung bình sau viêm não HSV là 22,9 ± 7,4 ngày. Triệu chứng hay gặp nhất là rối loạn vận động (81,8%), suy giảm tri giác tái phát và sốt lại (63,6%). Xét nghiệm dịch não tủy có tăng bạch cầu và nồng độ protein. Điện não đồ hay gặp sóng chậm khu trú hoặc lan tỏa hai bán cầu. Cộng hưởng từ sọ não không có tổn thương hoại tử mới. Viêm não kháng thụ thể NMDA sau viêm não HSV có thể gặp ở trẻ nhỏ. Các bác sỹ lâm sàng cần làm xét nghiệm tìm kháng thể kháng thụ thể NMDA trong dịch não tủy nếu bệnh nhân có triệu chứng thần kinh mới hoặc tái phát sau viêm não HSV.
#Viêm não kháng thụ thể NMDA #Herpes simpex virus #trẻ em
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ TRIỆU CHỨNG TÂM THẦN VỚI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM NÃO TỰ MIỄN DO KHÁNG THỂ KHÁNG THỤ THỂ N-METHYL-D-ASPARTATE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Phân tích mối liên quan giữa một số triệu chứng tâm thần với kết quả điều trị viêm não tự miễn do kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate (viêm não kháng thể kháng NMDAR). Đối tượng nghiên cứu: 40 bệnh nhân được chẩn đoán viêm não kháng thể kháng NMDAR trong thời gian từ tháng 01/2020 đến tháng10/2022 điều trị tại Trung tâm Thần Kinh, Bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang phân tích. Chúng tôi đánh giá bệnh nhân có kết quả điều trị tốt nếu điểm Rankin sửa đổi lúc ra viện (mRS) ≤ 2 và kết quả điều trị không tốt nếu điểm mRS > 2. Sau đó chúng tôi phân tích các triệu chứng tâm thần có liên quan đến kết quả điều trị. Kết quả: Trong 40 bệnh nhân nghiên cứu, tuổi trung bình là 33,68 ± 13,81, với tỷ lệ nữ giới chiếm ưu thế (65%). Triệu chứng thường gặp nhất là suy giảm nhận thức chiếm 75%, các triệu chứng tư duy không phù hợp và hành vi kỳ quặc, suy giảm tiến triển lời nói ngôn ngữ, hoang tưởng cũng thường xuyên gặp chiếm tỷ lệ lần lượt là 57,5%, 57,5%, 52,5%. Kết quả điều trị cho thấy có 17 bệnh nhân (42,5%) đạt kết quả tốt, 23 bệnh nhân (57,5%) kết quả xấu. Qua phân tích cho thấy nhóm có triệu chứng tư duy không phù hợp và hành vi kỳ quặc có nguy cơ gặp kết quả điều trị không tốt cao gấp 5,194 lần so với nhóm không có triệu chứng này (p <0,05). Kết luận: Qua nghiên cứu phân tích mối liên quan giữa một số triệu chứng tâm thần với kết quả điều trị viêm não kháng thể kháng NMDAR, bệnh nhân có triệu chứng tư duy không phù hợp và hành vi kỳ quặc có nguy cơ tiên lượng xấu cao gấp 5,194 bệnh nhân không có triệu chứng (95%CI 1,33 - 20,284, p <0,05).
#Viêm não tự miễn #kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate #NMDA
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA CORTICOSTEROID TRONG BỆNH LÝ VIÊM NÃO TỰ MIỄN DO KHÁNG THỂ KHÁNG THỤ THỂ N-METHYL-D-ASPARTATE TẠI TRUNG TÂM THẦN KINH BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Nhận xét kết quả điều trị của corticosteroid trong bệnh lý viêm não tự miễn do kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate (viêm não kháng thể kháng NMDAR). Đối tượng nghiên cứu: 40 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị viêm não kháng thể kháng NMDAR trong thời gian từ 01/2020 – 11/2022 tại Trung tâm Thần kinh Bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân viêm não kháng thể kháng NMDAR được điều trị ban đầu bằng corticosteroid, trong trường hợp bệnh nhân không đáp ứng thì kết hợp với các liệu pháp miễn dịch khác bao gồm thay thế huyết tương và/hoặc liệu pháp miễn dịch bậc 2 sử dụng rituximab, cyclophosphamid. Bệnh nhân được đánh giá có kết quả điều trị tốt nếu điểm Rankin sửa đổi lúc ra viện (mRS) ≤ 2 và kết quả điều trị không tốt nếu điểm mRS lúc ra viện > 2. Sau đó chúng tôi đánh giá kết quả của liệu pháp điều trị corticosteroid. Kết quả: Trong 40 bệnh nhân nghiên cứu, nữ giới chiếm đa số (72,5%) với tỷ lệ nam/nữ là 1/2,64 và tuổi trung bình là 33,25 ± 15,01. Tất cả các bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch, trong đó 16 bệnh nhân (40%) điều trị corticosteroid đơn độc, 24 bệnh nhân (60%) điều trị kết hợp corticosteroid với liệu pháp miễn dịch khác. Tại thời điểm ra viện, tỷ lệ bệnh nhân có kết quả tốt (47,5%) tương đương với tỷ lệ bệnh nhân có kết quả điều trị không tốt (52,5%). 87,5% số bệnh nhân đáp ứng với điều trị corticosteroid đơn độc đạt kết quả điều trị tốt, trong khi chỉ có 20,8% số bệnh nhân không đáp ứng với điều trị corticosteroid đơn độc đạt kết quả tương tự. Trong 16 bệnh nhân được điều trị liệu pháp corticosteroid đơn độc, có 11 bệnh nhân nữ (68,75%) và 5 bệnh nhân nam (31,25%), tỷ lệ kết quả điều trị tốt và không tốt ở đối tượng nữ giới lần lượt là 90,9% và 9,1%, ở đối tượng nam giới lần lượt là 60% và 40%; không có sự khác biệt về kết quả điều trị giữa hai giới với p = 0,214. Kết luận: Qua nghiên cứu kết quả điều trị của liệu pháp corticosteroid trong bệnh lý viêm não kháng thể kháng NMDAR, chúng tôi nhận thấy có 47,5% số đối tượng đạt kết quả tối và 52,5% đạt kết quả không tốt. 87,5% số bệnh nhân đáp ứng với điều trị corticosteroid đơn độc đạt kết quả điều trị tốt, trong khi chỉ có 20,8% số bệnh nhân không đáp ứng với điều trị corticosteroid đơn độc đạt kết quả tương tự.
#Viêm não tự miễn #kháng thể kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate #NMDA
Tổng số: 5   
  • 1